Tham nhũng là gì? Các công bố khoa học về Tham nhũng
Tham nhũng là hành vi lạm dụng quyền lực, chức vụ hoặc ảnh hưởng của cá nhân hoặc tổ chức để thu lợi cá nhân thông qua việc nhận hoặc tặng hối lộ, tiền bạc, quà...
Tham nhũng là hành vi lạm dụng quyền lực, chức vụ hoặc ảnh hưởng của cá nhân hoặc tổ chức để thu lợi cá nhân thông qua việc nhận hoặc tặng hối lộ, tiền bạc, quà tặng, quan hệ tình dục, hay bất kỳ lợi ích vật chất nào khác. Tham nhũng gây ra tác động tiêu cực, làm suy yếu niềm tin của người dân vào nhà nước và gây ảnh hưởng xấu đến sự công bằng, phát triển kinh tế và xã hội của một quốc gia.
Tham nhũng là một vấn đề phức tạp và đa dạng, có thể xảy ra ở nhiều lĩnh vực khác nhau như chính trị, kinh tế, hành chính công, tư pháp, y tế, giáo dục, an ninh... Tham nhũng có thể diễn ra từ cấp quản lý cao nhất đến cấp cơ sở.
Các hình thức phổ biến của tham nhũng bao gồm:
1. Hối lộ: Đây là hình thức tham nhũng thông qua việc trao đổi tiền bạc, quà tặng hoặc các khoản lợi ích vật chất để nhận được sự chiếu cố, sự ưu ái, tiếp cận thông tin hoặc thủ tục hành chính thuận lợi từ người có quyền lực.
2. Các giao dịch phi chính thức: Tham nhũng cũng có thể xảy ra thông qua các giao dịch không chính thức hoặc ẩn danh nhằm trốn thuế, tạo lợi nhuận bất hợp pháp hay chuyển tiền từ nguồn hợp pháp sang cá nhân hoặc tổ chức tham nhũng.
3. Lạm dụng quyền lực: Tham nhũng còn liên quan đến việc lạm dụng quyền lực trong các vị trí chức vụ để tạo ra những lợi ích cá nhân bằng cách gian lận, nhũng nhiễu hoặc chiếm đoạt tài sản hoặc nguồn lực công.
Tham nhũng gây nhiều hậu quả tiêu cực như:
1. Gây thiệt hại về kinh tế: Tham nhũng giảm đi sự minh bạch, tăng chi phí, giảm hiệu quả và động lực đầu tư trong kinh tế, ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển của một quốc gia.
2. Gây thiệt hại cho sự công bằng và phát triển xã hội: Tham nhũng làm gia tăng bất công, chia rẽ tầng lớp xã hội, tạo ra sự thiếu công bằng trong cơ hội tiếp cận giáo dục, công việc, chăm sóc y tế và các dịch vụ cơ bản khác.
3. Mất lòng tin vào chính phủ và hệ thống công quyền: Tham nhũng làm mất đi niềm tin của người dân vào chính phủ và các cơ quan chức năng, gây tác động tiêu cực đến sự ổn định chính trị và xã hội.
Trong các nỗ lực chống tham nhũng, các quốc gia thường thiết lập các cơ quan chuyên trách,制定法律和政策来惩罚腐败行为。 Các biện pháp phổ biến như kiểm soát tài sản, tăng cường minh bạch và quản lý công, nâng cao trách nhiệm và đạo đức của các nhà lãnh đạo, cũng như tăng cường giáo dục và nhận thức của cộng đồng về vấn đề tham nhũng cũng được áp dụng để giảm thiểu tham nhũng và xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tham nhũng":
Chúng tôi lần đầu tiên trực quan hóa cấu trúc thiếu hụt trong não người liên quan đến việc lạm dụng methamphetamine (MA) mãn tính. Các nghiên cứu trên những người sử dụng MA mãn tính đã cho thấy sự thiếu hụt trong hệ thống dopaminergic và serotonergic cũng như bất thường về chuyển hóa não. Sử dụng chụp cộng hưởng từ (MRI) và các kỹ thuật lập bản đồ não tính toán, chúng tôi xác định mô hình thay đổi cấu trúc não liên quan đến việc lạm dụng MA mãn tính và liên hệ những thiếu hụt này với suy giảm nhận thức. Chúng tôi đã sử dụng MRI độ phân giải cao và phân tích hình ảnh tính toán dựa trên bề mặt để lập bản đồ các bất thường khu vực ở vỏ não, hippocampus, chất trắng, và các não thất của 22 người đã sử dụng MA và 21 người khỏe mạnh cùng độ tuổi để đối chứng. Các bản đồ vỏ não cho thấy sự thiếu hụt chất xám nghiêm trọng ở vỏ não cingulate, limbic, và paralimbic của những người lạm dụng MA (trung bình là 11.3% thấp hơn so với nhóm đối chứng;
Methamphetamine và methcathinone là các loại thuốc kích thích tâm lý có khả năng sử dụng lạm dụng cao. Ở động vật, methamphetamine và các loại thuốc liên quan được biết là có khả năng gây tổn hại cho các tế bào thần kinh dopamine (DA) trong não, và gần đây tổn hại này đã được chứng minh có thể phát hiện ở linh trưởng không phải người sống thông qua phương pháp chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) với [11C]WIN-35,428, một dạng chất gắn kết với chất vận chuyển DA (DAT). Nghiên cứu hiện tại nhằm xác định liệu những người từng sử dụng methamphetamine hoặc methcathinone có bằng chứng cho thấy sự giảm lâu dài mật độ DAT trong não hay không. Các nghiên cứu PET đã được tiến hành trên 10 đối tượng kiểm soát, sáu người từng sử dụng methamphetamine và bốn người từng sử dụng methcathinone, cùng với ba bệnh nhân bệnh Parkinson (PD). Trung bình, các đối tượng đã ngừng sử dụng chất kích thích khoảng 3 năm. Trước khi thực hiện các nghiên cứu PET, tất cả đối tượng phải làm các xét nghiệm hóa học trong nước tiểu và máu để loại trừ việc sử dụng ma túy gần đây. So sánh với nhóm kiểm soát, những người từng sử dụng methamphetamine và methcathinone có sự giảm đáng kể mật độ DAT ở nhân đuôi (-23% và -24% tương ứng) và nhân bèo (-25% và -16% tương ứng). Sự giảm mạnh hơn mật độ DAT được ghi nhận ở bệnh nhân PD (-47% và -68% ở nhân đuôi và nhân bèo tương ứng). Không có dấu hiệu lâm sàng của bệnh Parkinson được tìm thấy ở những người sử dụng methamphetamine hoặc methcathinone. Giảm mật độ DAT lâu dài ở những người dùng methamphetamine và methcathinone chỉ ra sự mất mát DAT hoặc mất mát đầu cuối của DA và làm tăng khả năng rằng khi những người này già đi, họ có nguy cơ phát triển bệnh Parkinson hoặc các tình trạng tâm thần kinh, trong đó các tế bào thần kinh DA trong não có liên quan.
Đánh giá độ tin cậy và độ giá trị của bảng câu hỏi tỉnh thức Southampton (SMQ), công cụ đo gồm 16 mục để nhận thức tỉnh thức về những suy nghĩ và hình ảnh đáng lo ngại.
Tổng cộng 256 người đã tham gia, gồm 134 người trong mẫu cộng đồng không có dấu hiệu lâm sàng (83 người thiền định và 51 người không thiền định) và một mẫu lâm sàng gồm 122 người đang có chứng loạn thần gây khổ sở hiện thời. Để đánh giá độ giá trị đồng thời, các người tham gia không mắc bệnh lâm sàng và một nửa người tham gia mắc bệnh lâm sàng (tổng cộng 197 người tham gia) đã hoàn thành thang đo nhận thức và chú ý tỉnh thức (MAAS). Các liên kết dự đoán được đánh giá với cảm xúc và 59 bệnh nhân đã hoàn thành thước đo được xác nhận để đánh giá liên kết giữa tỉnh thức và cường độ của trải nghiệm ‘mê tín’.
Thang đo có cấu trúc một yếu tố duy nhất, có độ tin cậy nội bộ tốt, tương quan đáng kể với MAAS, cho thấy các mối liên hệ dự kiến với ảnh hưởng và phân biệt giữa những người thiền định, người không thiền định và người mắc chứng loạn thần.
Dữ liệu hỗ trợ việc sử dụng SMQ trong thực hành và nghiên cứu lâm sàng để đánh giá phản ứng tỉnh thức với những suy nghĩ và hình ảnh khó chịu.
Một kỹ thuật mới nổi trong nghiên cứu đau mãn tính là
Câu cá giải trí trên biển (
Sự tham gia của công chúng trong các quyết định môi trường đã trở thành một điều phổ biến. Một mô hình được ưa chuộng để nhận được ý kiến công chúng là sử dụng các công cụ giải quyết tranh chấp nhằm tìm kiếm sự đồng thuận giữa các thành viên của một nhóm các bên liên quan đa dạng. Các tác giả tin rằng sự tập trung vào giải quyết tranh chấp và xây dựng đồng thuận có thể tạo ra những trở ngại cho việc tạo ra những nhận thức cho các nhà ra quyết định và dẫn đến việc áp dụng các lựa chọn chính sách kém. Thay vào đó, họ ủng hộ một phương pháp tiếp cận khác đối với sự tham gia của các bên liên quan, được đặc trưng bởi việc “hỗ trợ quyết định” thông qua một quy trình có cấu trúc dựa trên các kỹ thuật đa thuộc tính mang tính xây dựng và tư duy tập trung vào giá trị. Trong bài báo này, một số khó khăn chính do cách tiếp cận giải quyết tranh chấp gây ra được nêu bật, các nguyên tắc của một quy trình hỗ trợ quyết định được xem xét, và phương pháp tiếp cận thay thế này được minh họa qua việc mô tả một buổi tư vấn với các bên liên quan liên quan đến lập kế hoạch sử dụng nước cho một nhà máy thủy điện trên sông Alouette ở British Columbia, Canada. © 2001 bởi Hiệp hội Phân tích Chính sách Công và Quản lý.
Để hiểu biết về các con đường truyền bá và sử dụng thông tin sức khỏe của các thành viên trong cộng đồng Bản địa, nhóm nghiên cứu đã áp dụng phương pháp nghiên cứu hành động tham gia của Bản địa, kết hợp với một cộng đồng Inuit đô thị, một cộng đồng Métis đô thị và một cộng đồng Đệ nhất Quốc gia nửa thành phố ở Ontario, Canada. Một nghiên cứu trường hợp cộng đồng mô tả đã được tiến hành tại mỗi cộng đồng thông qua việc sử dụng các nhóm tập trung, phỏng vấn những người cung cấp thông tin chủ chốt, và khảo sát tài liệu. Các kết quả đã được xác nhận bởi các cộng đồng. Mỗi cuộc tham vấn cộng đồng tạo ra những dữ liệu rõ nét và nổi bật về các nguồn thông tin sức khỏe và chiến lược truyền bá; quy trình ra quyết định; các khái niệm sức khỏe liên quan tại địa phương, dịch vụ sức khỏe địa phương và các chương trình; cấu trúc cộng đồng; cùng với các cơ chế tương tác với các hệ thống không thuộc cộng đồng. Thêm vào đó, một số chủ đề tổng hợp đã được xác định. Phương pháp nghiên cứu tham gia đã thành công trong việc thu hút các đối tác cộng đồng. Các phát hiện này hỗ trợ giả thuyết rằng việc hiểu biết về các quy trình tạo ra, truyền bá và sử dụng kiến thức tại địa phương của người Bản địa là điều kiện tiên quyết cần thiết để chuyển đổi kiến thức hiệu quả trong bối cảnh Bản địa.
Rối loạn stress sau chấn thương (PTSD) do thảm họa Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 (9/11) là một trong những tình trạng sức khỏe phổ biến và dai dẳng nhất trong cả hai nhóm phản ứng chuyên nghiệp (ví dụ: cảnh sát) và phi truyền thống (ví dụ: công nhân xây dựng) WTC, ngay cả nhiều năm sau sự kiện 9/11. Tuy nhiên, kiến thức về kích thước và diễn biến tự nhiên của triệu chứng PTSD liên quan đến WTC ở các nhóm này vẫn còn hạn chế.
Dữ liệu đã được phân tích từ 10.835 người phản ứng WTC, bao gồm 4.035 cảnh sát và 6.800 phản ứng phi truyền thống được đánh giá như một phần của Chương trình Sức khỏe WTC, mạng lưới phòng khám tại khu vực New York được thành lập bởi Viện Quốc gia về An toàn và Sức khỏe Nghề nghiệp. Phân tích nhân tố xác nhận (CFA) được sử dụng để đánh giá các mô hình cấu trúc của kích thước triệu chứng PTSD; và hồi quy panel chéo tự hồi quy (ARCL) được sử dụng để xem xét các mối quan hệ tương tác đáng kể giữa các cụm triệu chứng PTSD ở 3, 6 và 8 năm sau sự kiện 9/11.
CFA cho thấy năm cụm triệu chứng ổn định nhất đại diện cho kích thước triệu chứng PTSD ở cả người phản ứng cảnh sát và phi truyền thống. Mô hình năm yếu tố này cũng không thay đổi theo thời gian về các hệ số tải yếu tố và các tham số cấu trúc, qua đó cho thấy sự ổn định theo chiều dài. Phân tích hồi quy panel ARCL tiết lộ rằng các triệu chứng kích thích quá mức có vai trò quan trọng trong việc dự đoán các cụm triệu chứng PTSD khác, với các triệu chứng lo âu chủ yếu dẫn dắt các triệu chứng tái trải nghiệm, và các triệu chứng kích thích khó chịu chủ yếu dẫn dắt các triệu chứng tê liệt cảm xúc theo thời gian.
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy triệu chứng PTSD liên quan đến thảm họa ở những người phản ứng WTC được đại diện tốt nhất bởi năm chiều triệu chứng. Các triệu chứng lo âu, được đặc trưng bởi sự cảnh giác quá mức và sự giật mình quá mức, có thể dẫn dắt chủ yếu các triệu chứng tái trải nghiệm, trong khi các triệu chứng kích thích khó chịu, được đặc trưng bởi rối loạn giấc ngủ, cáu gắt/giận dữ và khó khăn trong việc tập trung, có thể dẫn dắt chủ yếu các triệu chứng tê liệt cảm xúc theo thời gian. Những kết quả này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá, theo dõi và can thiệp sớm các triệu chứng kích thích quá mức ở những người phản ứng WTC và những thảm họa khác.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10